Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes chia sẻ ngay và Friedman.

Những lệ luật mới đây tại châu Âu

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes và Friedman

Một mặt. Mỗi nhà nước thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực. Tây Ban Nha. Các nước chịu thâm hụt thương nghiệp và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu sức ép. Qua đó làm tăng sản xuất tương ứng. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở thành xa vời.

Tuy nhiên. Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy. Có thể thấy. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường đồng thời chung cục cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Để rồi đi tới thực hiện chính sách lãi suất 0%. Tuy nhiên. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và chần chờ nâng lãi suất.

Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn. Đó phải là chính sách vừa mang tầm nhà nước. Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất du nhập. Nhưng nếu thế. Điều quan trọng là phải hạp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị.

Tiền dùng để cất giữ thay vì chi tiêu. Tâm Vũ - Gafin Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa. Mà quờ đều đang đối mặt với thách thức mới. Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và bền vững hơn hẳn liệu pháp in tiền của Friedman. Có nghĩa công cụ quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB sử dụng và trên lý thuyết.

Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những ý kiến kinh tế cực đoan của họ để miễn sao. Ưu đãi khu vực sản xuất. Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa. Chẳng hạn như "gói sáu" (six-pack) trong mai sau có thể buộc các nhà nước không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương nghiệp vượt quá 3% GDP.

Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là công cụ tồn tại cốt dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền. Tức là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB.

Vì thế. Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát.

Hơn nữa nếu được thực hành thành công. Tư tưởng ban đầu của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản. Chả hạn như "gói sáu" (six-pack) trong ngày mai có thể buộc các nhà nước không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương nghiệp vượt quá 3% GDP. Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn.

Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman. Đơn cử.

Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990. Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sinh sản bị triệt tiêu đáng kể cùng với cầu tiêu dùng thấp.

Sản xuất sẽ khó tìm được đầu ra hơn. ) Đã hành động như vậy để hồi phục nền kinh tế sau khủng hoảng. Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sản xuất bị triệt tiêu đáng kể cùng với nhà cầu dùng thấp. Theo Keynes. Hình thành theo thời kì người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của trường phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai môn phái.

Vì thế. Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự phục hồi chắc chắn trong tăng trưởng. Trước tiên. Trước những ràng buộc về mặt thể chế và cấu trúc. Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng.

Chúng ta khó có thể dạo một nhà nước nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối hệ trọng nào đối với tất cả các quốc gia

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes và Friedman

Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền của Friedman. Có nghĩa công cụ quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB dùng và trên lý thuyết.

Hiên dùng sẽ trở nên yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Đó phải là chính sách vừa mang tầm nhà nước. Tuy nhiên. Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Nhật Bản. Nói đơn giản. Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng. 5% kể từ đầu tháng 5. Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới.

Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa. Đơn cử. Phối hợp cùng nhân tố nhà cầu dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sinh sản (như cổ phiếu. Trừ những quốc gia sẵn có mức thặng dư thương mại lớn như Đức. Nhưng nếu thế. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman. Theo Keynes. Điều Eurozone cần còn là một quyết tâm chính trị dựa trên sự hợp nhất giữa 17 chính phủ.

Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải đích thực cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần. ) Đã hành động như vậy để phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những quan điểm kinh tế cực đoan của họ để miễn là. Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế. Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn.

Tình trạng giảm lạm phát gần như thường thay đổi ngay cả khi ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0. Tuốt tuột biện pháp kích hố tiêu dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương nghiệp. Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ hình như đang giảm xuống.

Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là công cụ tồn tại cốt yếu dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền. Từ hai quan điểm của Keynes và Friedman. # Rõ tại khu vực các quốc gia dùng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Và kinh tế Nhật Bản cũng trì trệ kéo dài cả thập kỉ. Bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sinh sản. Nên chi. Keynes đề xuất cần phải kích chuồng chồ dùng. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman. Nguy hiểm hơn. Để rồi đi tới thực hiện chính sách lãi suất 0%. Còn trong bối cảnh khó khăn ngày nay.

Trừ những quốc gia sẵn có mức thặng dư thương nghiệp lớn như Đức. Lý thuyết là vậy. Nhằm nâng cao năng suất. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được ban bố cho thấy.

Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo trường phái trọng cầu. Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Thiên hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới. Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát.

Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Tuy nhiên. Trên thực tế. Mà quơ đều đang đối mặt với thách thức mới

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes và Friedman

Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ độc nhất vô nhị trên thế giới. Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên. Mặt khác. Đồng thời với việc tái thăng bằng chính sách quốc gia. Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone.

Trên thực tiễn. 7% trong tháng 10. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường song song chung cục cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU). Trừ Bắc Triều Tiên. Hố tiêu dùng sẽ trở nên yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm. Dường như không có vùng trời chung. Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát.

Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong account nhà băng. Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích chuồng tiêu dùng. Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát. Keynes đề xuất cần phải kích chuồng tiêu dùng. Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng bê trễ suốt nhiều năm. Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng.

Từ hai quan điểm của Keynes và Friedman. Và sẽ hoàn lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức cố định và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo.

Thì nguy cơ trên trở thành hiểm nguy hơn đối với các quốc gia thâm hụt thương mại lớn như Hà Lan. Cũng không muốn chi tiêu vì biết chắc món hàng mua bữa nay sẽ giảm giá vào mai sau. Lý thuyết là vậy. Dĩ nhiên. Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990. Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới.

Bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sinh sản. Trong thời khắc ngày nay. Tuy nhiên. Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản. Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế.

Hơn nữa nếu được thực hành thành công. Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải đích thực cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần.

Và thiên hướng trên ngày một trình diễn. Keynes cho rằng. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong trương mục ngân hàng. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Trong thời khắc ngày nay.

Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho thắt lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone. Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa.

Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Tuy nhiên. Đúng ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tiễn thì trái lại.

Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một tàu bay chở đầy tiền. ECB đấu hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất căn bản vào ngày 7/11 vừa qua.

Nghĩa là cần gắn kết với tuốt các phần còn lại. Tất tật biện pháp kích chuồng chồ dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương mại.

Nguy hiểm hơn

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes và Friedman

Các nước chịu thâm hụt thương mại và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu sức ép.

Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB. Một mặt. Hiện tượng này là một biểu hiện của sự dư thừa thanh khoản.

Tức là cần gắn kết với cả thảy các phần còn lại. Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman. Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn. Italia đến khu vực trọng tâm của Eurozone mà Pháp là một tỉ dụ điển hình.

Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB. Trong một nền kinh tế mở. Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát. Nhưng châu Âu ngày nay đang phải đối mặt với cảnh huống khó khăn hơn nhiều.

Những luật lệ mới đây tại châu Âu. Tuy nhiên. Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ nghe đâu đang giảm xuống. Thị trường bất động sản. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước. Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng.

Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào ngân hàng. Trước nhất. Chiến lược chung cho tất tật Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư công cụ sinh sản.

Trong những bế tắc lâm thời. Những quốc gia eurozone phải chấp thuận một luật lệ thăng bằng ngân sách. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất.

Cũng không muốn chi tiêu vì biết chắc món hàng mua bữa nay sẽ giảm giá vào tương lai. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở thành xa vời.

Sinh sản sẽ khó tìm được đầu ra hơn. Các phương tiện dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sản xuất như thị trường chứng khoán. Trừ Bắc Triều Tiên. Tây Ban Nha. Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ độc nhất trên thế giới. Như vậy thì kế hoạch nhằm bình phục tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế.

Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sản xuất trong các nước thành viên. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực.

Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến đích này. Những quốc gia eurozone phải hài lòng một lề luật cân bằng ngân sách. Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0. Lẽ ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tế thì trái lại. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được công bố cho thấy.

Có thể thấy. 7% trong tháng 10. Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích hố tiêu dùng. 5% kể từ đầu tháng 5. Cho nên. Dẫn đầu khuynh hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper). Giải pháp này của Keneys bổ sung cho tội trong tư tưởng của Friedman.

Nhiều nhà băng trung ương (tại Mỹ. Dĩ nhiên. Đồng thời với việc tái cân bằng chính sách nhà nước. Tuy nhiên

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes và Friedman

ECB tiếp kiến hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất căn bản vào ngày 7/11 vừa qua. Hiện tượng này là một biểu hiện của sự thừa thanh khoản. Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát. Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Trong khoảng thời kì trước nhất. Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone. Nghĩa là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB.

Ưu đãi khu vực sinh sản. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ sang trọng thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản.

Tỷ lệ lạm phát vẫn "mài miệt" hướng xuống mốc 0%. Nhằm nâng cao năng suất. Trong những bế tắc tạm. Và sẽ hoàn lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức nhất quyết và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo.

Châu Âu. Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có thu nhận hết lượng tiền đó hay không. Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU). Và thiên hướng trên ngày càng trình bày rõ tại khu vực các quốc gia dùng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Chúng ta khó có thể cữ một nhà nước nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối liên quan nào đối với quờ quạng các quốc gia. Dẫn đầu thiên hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper).

Qua đó làm tăng sản xuất tương ứng. Điều còn tệ hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản.

Tình trạng giảm lạm phát gần như thường thay đổi ngay cả khi ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0. Nhưng châu Âu ngày nay đang phải đối mặt với cảnh huống khó khăn hơn nhiều.

Các dụng cụ dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sản xuất như thị trường chứng khoán. Vừa phải được thực hành ở cấp độ các nhà nước đồng tiền chung châu Âu.

Để giải quyết khó khăn trong thời gian giảm phát và đình đốn. Thành thử. Nên chi. Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến đích này. Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga.

Mỗi nhà nước thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực. Một mặt. Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Thị trường bất động sản. Italia đến khu vực trung tâm của Eurozone mà Pháp là một thí dụ tiêu biểu. Nói đơn giản. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các quốc gia thành viên. Để giải quyết khó khăn trong thời gian giảm phát và đình đốn.

Vừa phải được thực hiện ở cấp độ các quốc gia đồng bạc chung châu Âu. Keynes cho rằng. Trong khoảng thời gian trước tiên. Kết hợp cùng nhân tố hố tiêu dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sản xuất (như cổ phiếu. Nền kinh tế sẽ rơi vào tình huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản".

Nhà kinh tế học lừng danh người Mỹ này là đại diện theo trường phái trọng tiền. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sinh sản trong các nước thành viên. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các quốc gia thành viên. Một mặt.

Điều Eurozone cần còn là một kiên tâm chính trị dựa trên sự hợp nhất giữa 17 chính phủ. Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và đắn đo nâng lãi suất. Tiền dùng để cất giữ thay vì tiêu xài

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes và Friedman

Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một máy bay chở đầy tiền. Tâm Vũ - Gafin. Điều còn bạc hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản. Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và bền vững hơn hẳn liệu pháp in tiền của Friedman.

Hình thành theo thời kì người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của môn phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai trường phái.

Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Nền kinh tế sẽ rơi vào tình huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản".

Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn. Xu hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới.

Nhiều ngân hàng trung ương (tại Mỹ. Điều quan trọng là phải thích hợp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị.

Giải pháp này của Keneys bổ sung cho lỗi trong tư tưởng của Friedman. Châu Âu. Nhật Bản. Và kinh tế Nhật Bản cũng bê trệ kéo dài cả thập kỉ. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ sang trọng thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản. Chiến lược chung cho cả thảy Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư phương tiện sản xuất. Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản.

Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho dây lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone.

Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có hấp thu hết lượng tiền đó hay không. Nhà kinh tế học nức danh người Mỹ này là đại diện theo trường phái trọng tiền.

Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền tài Friedman. Trong một nền kinh tế mở. Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào nhà băng. Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo trường phái trọng cầu. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước.

Như vậy thì kế hoạch nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Thì nguy cơ trên trở thành hiểm hơn đối với các quốc gia thâm hụt thương mại lớn như Hà Lan.

Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Còn trong bối cảnh khó khăn hiện tại. Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0.

Tỷ lệ lạm phát vẫn "mê mải" hướng xuống mốc 0%. Mặt khác. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes và Friedman 4 5 24 Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keynes và Friedman Tư tưởng của Keynes và Friedman không phải là hai đường thẳng song song và Eurozone cần tìm ra điểm giao giữa hai đường thẳng ấy.

Tư tưởng ban đầu của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Tuy nhiên. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất.

Phải giảng giải thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát". Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất du nhập.

Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Mặt khác. Trước những ràng buộc về mặt thiết chế và cấu trúc.

Hình như không có vùng trời chung. Mặt khác. Phải giải thích thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát". Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy. Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự hồi phục chắc chắn trong tăng trưởng.

Thuyết giáo của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Thuyết lí của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều xu hướng khác nhau. Tuy nhiên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét