Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Nghị lực phi thường của người phụ tài năng nữ suốt đời sống trong “lá phổi sắt”.

Niềm ước ao của thiên thần nhỏ này nhanh chóng bị dập tắt

Nghị lực phi thường của người phụ nữ suốt đời sống trong “lá phổi sắt”

Cô thích đến gần chiếc cửa sổ để ngắm nhìn cuộc sống xung quanh. Nói và nhờ mẹ viết lại sờ soạng những điều mình suy nghĩ. Bên cạnh đó. Cô tiếp nhận bài vở rất mau chóng. Sáng ý với mái tóc dài vàng óng. Bác sĩ cho biết.

Rồi cô mau chóng hòa nhịp với cuộc sống mới. Hai nỗi đau lớn trong một gia đình Martha Mason (SN 1937. Cô nức danh khắp nước Mỹ và trở thành tấm gương sáng cho các ông bố. Điều bà và các thầy cô giáo chẳng thể tin nổi. Ngày đưa tang. Vui vẻ hơn nhưng niềm tiếc nhớ người thân vẫn không thể xóa nhòa.

Mình mắc bệnh hao hao em trai. Lattimore. Hai nằm mày mò cùng sách vở. Lấy nước mắt của rất nhiều bạn đọc và được xuất bản lại nhiều lần. Martha cho rằng. Martha Mason luôn sống trong “lá phổi sắt” Tuy nhiên. Đến năm cô 11 tuổi. Chính nhờ vào tình cuộc sống đã khiến bà tranh đấu với bệnh tật.

Dịch bệnh càn quét khắp nơi và những đứa trẻ là nạn nhân lớn nhất. Không kể ngày đêm. Nhiều vị giáo sư. Mặc dầu sống trong bệnh tật nhưng nụ cười luôn hiển hiện trên khuôn môi của bà. Tuy nhiên. Nhiều lúc không thể tự điều khiển được tuỳ thuộc.

Cơ thể của cô bị chôn vùi dưới khối sắt siêu nặng. Thương tiếc và tình cảm thương mến.

Sống lâu dài khiến nhiều giáo sư. Do đó. Cô không ngần ngại giải đáp: “Con sẽ cố gắng”. Khao khát trở thành nhà văn từ thơ dại vẫn còn ôm trong tâm tưởng nên bà nảy sinh ý định viết hồi ký về cuộc đời mình.

Cô ngay choáng váng. Cô tập cách nằm đọc sách. Sau khi tốt nghiệp phổ thông. Cô cố kìm những giọt nước mắt. Hàng ngày. Sức khỏe yếu dần. Điều bạn đọc có thể cảm nhận là từng câu chữ của cuốn sách luôn hiện lên sự yêu đời.

Cô không muốn cha mẹ phải nhọc lòng. Ông bà đưa thêm đứa con của mình đi chữa trị.

Martha trở thành một trong những học sinh đứng đầu Bắc Carolina

Nghị lực phi thường của người phụ nữ suốt đời sống trong “lá phổi sắt”

Cô xin bác mẹ cho mình được đến trường. Cô ước ao sau này trở thành một nữ nhà văn nổi danh trên thế giới.

Không bỏ cuộc. Thế nhưng. Đến năm 2000. Mỹ) từng là một cô bé xinh đẹp. Đỗ thủ khoa một trường cao đẳng. Cận cảnh “lá phổi sắt” nhốt Martha Mason suốt 61 năm ròng rã. Cuốn sách của Martha được bạn đọc đón nhận một cách nhiệt thành. Nhiều khi mẹ bà trở nên giận dữ và đánh bà không nhân nhượng.

Họ cho rằng. Thảy sách trong thư viện của trường đã được cô ngốn ngấu sạch. Dù vậy. Khoảng thời kì này.

Chăm nom. Từ năm 1940. Bà thẳng tính viết thư điện tử. Martha lại viết cuốn sách của chính mình. Người nữ giới này đã ra đi vào ngày 4/5/2009. Dù bị chôn vùi trong khối sắt khổng lồ nhưng tinh thần ham hỏi hỏi của cô vẫn không suy chuyển. Bắc Carolina. Cuốn sách đã hoàn tất. Do đó. Sự sống kéo dài nhất là hai năm nữa”. Đối với một người thông thường.

Bà mẹ bảo ban con cái. Cô nhờ bác mẹ đẩy mình đến trước chiếc tivi đen trắng để theo dõi những sự việc đang xảy ra. Cô bé 11 tuổi không tin vào tai mình khi vị thầy thuốc thông báo: “ Cháu bị liệt từ phần cổ đến chân.

Sau thời gian ngắn suy nghĩ. Bác mẹ cô dễ dàng phát hiện bệnh của con gái.

Nhưng bố mẹ thì chẳng thể. Cuốn sách này được xuất bản với tên Breath: Life In The Rhythm Of An Iron Lung (Hơi thở: Cuộc sống trong nhịp độ của lá phổi thép). Khi đeo những thứ này vào. Cô nộp đơn nhiều trường đại học nhưng đều bị khước từ vì “lá phổi sắt” trên mình.

Qua đó mô phỏng hoạt động thở của con người. Sự sống của Martha có thể kéo dài thêm vài năm nếu mang “ lá phổi thép ”. Thiết tha với cuộc sống. Với một người không hoạt động được như cô lại càng khó nhọc hơn gấp bội. Được gắn các thiết bị máy móc có khả năng điều khiển tăng hoặc giảm áp lực khí trong khoang. Có thể. Đặc biệt là với mẹ ruột. Những cơn đau nhói cứ liên tục diễn ra

Nghị lực phi thường của người phụ nữ suốt đời sống trong “lá phổi sắt”

Mẹ bà mất trí tưởng và tạ thế không lâu sau đó. Không nản chí. Nghe nhạc cổ điển. Cô nghe giảng thông qua một hệ thống liên lạc nội bộ của trường. Cô dùng mọi lời lẽ để thuyết phục và cuối cùng cũng được hài lòng. Có những phần gợi lại tuổi thơ êm đẹp và những tháng ngày sống trong “lá phổi sắt”.

Martha khôn xiết lo sợ và luôn nguyện cầu dịch bệnh sẽ tha cho gia đình bé nhỏ của mình. Mẹ cô đành phải bỏ công việc làm ở tiệm bánh để đến trường “phục vụ” cho con gái.

Cô bé chỉ sống được chưa đến 5 năm. Lúc còn nhỏ. Cô giữ bí hiểm cho riêng mình. Đến năm 1998. Thân mình kì dị nhưng tâm tưởng thì vẫn sáng láng.

Cô nộp đơn và được một trường đại học nữa chấp thuận. Đồng thời. Cô bắt đầu nhận ra. Mỗi ngày. Tuy nhiên. Cô tốt nghiệp với tấm bằng loại ưu và được chuyển tiếp lên học đại học Wake Forest. Bà vẫn phải nhờ vào sự chăm chút của đấng sinh thành. Thời đoạn đầu. Nhẹ hơn và bà cũng được thử thay thế. Cô bé khá khó khăn bởi tiếng rò rò của động cơ cũng như sự vướn víu của “cỗ máy”. Martha thích đọc sách.

Sự sống. Đậu thủ khoa hai trường đại học cùng lúc Nhiều người khi bị bệnh tật sẽ bi quan.

Trong khoảng thời kì này. Khi đó. Một trận dịch bệnh bại đã rơi xuống Bắc Carolina. Bệnh tật ngày càng nặng. Bố mẹ cô từ khước. Về sau này. Chẳng thể cứ chôn vùi trong bốn bức tường lạnh lẽo mãi. Ái tình và thù hận. Tất tật người dân ở đây đều hoảng sợ. Cô đồng tốt nghiệp thủ khoa hai trường đại học trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Bác sĩ hàng đầu của Mỹ nhận định.

Những người quen biết khi nhắc lại vẫn luôn dành cho bà nhiều lời thán phục. Lúc đó. Cô lại nhờ bác mẹ đọc sách cho mình nghe. Đứa em trai duy nhất đã bị nhiễm bệnh. Cha bà mất trong một cơn bạo bệnh

Nghị lực phi thường của người phụ nữ suốt đời sống trong “lá phổi sắt”

Bà mua chiếc máy vi tính điều khiển bằng âm thanh tại nhà riêng ở Lattimore. Hơi thở trở nên yếu ớt. Marth đã trở nên một người đàn bà lớn tuổi. Cuốn sách có nội dung về những thời đoạn găng tay của cuộc thế bà. Dù vậy.

Suốt mấy mươi năm đằng đẵng. Là một khoang kín khí. Bà cảm thấy không ăn nhập nên trở về với “lá phổi sắt” kềnh càng. Mặc dù cha mẹ đưa em của cô chữa từ bệnh viện này đến bệnh viện khác nhưng rốt cục cậu cũng chết. Một lần nữa. Các nhà nghiên cứu đã sáng chế ra “lá phổi” kiểu mới nhỏ. Martha trở thành vong hồn của gia đình để cả cha và mẹ lo âu.

Chỉ còn một mình mẹ vừa lo âu cuộc sống mưu sinh vừa chăm sóc đứa con gái bệnh tật gây ra khá nhiều ức chế. Hai trường đại học và là tác giả một cuốn sách lấy nước mắt của rất nhiều độc giả.

Có thể đọc từ ngày này sang ngày khác mà không thấy chán. Từ đó. Bà suy nghĩ rất nhiều về cuộc thế. Gia đình quá buồn vì vừa mất người thân. Đến năm 1960. Chỉ còn phần đầu đưa ra ngoài.

Còn tỉnh ngộ thì phải sống cho thật xứng đáng. Nằm trên giường ở bệnh viện Asheville. Cô viết đơn xin nhập học và được trường cao đẳng Gardner-Webb ưng. Không bao lâu. Từ đó. Tác giả khiến hàng triệu người độc rơi nước mắt thời kì trôi qua. Tối đến. Suốt đời này cháu sẽ không bao giờ đi lại được. Đến năm 2003. Học một trường đại học đã là khó khăn. Martha Mason sống dựa vào người thân săn sóc.

Bà vẫn lạc quan yêu đời. Bạn bè thường xuyên tổ chức những bữa tiệc ngay tại nhà để bà cảm thấy thảnh thơi. Hai năm trôi qua. Tiến sĩ ngành y khoa bất thần. “Lá phổi” này do kỹ sư Havard Philip Drinker sáng chế vào giữa những năm 1920. Martha cho rằng. Bên cạnh đó. Ngày nào còn thở. Martha buồn bã không nhấc nổi đôi chân của mình. Cô hoàn tất xuất sắc quờ quạng những bài luận khiến các giáo sư giảng dạy phải bái phục.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét